Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng sporty ngày nay, sneakers là một phụ kiện không thể thiếu trong bộ sưu tập của tín đồ thời trang.
Cùng với vẻ ngoài khỏe khoắn, thời thượng, sneakers đảm bảo sự dễ chịu, thoải mái nhất cho người sử dụng.
Các cột mốc quan trọng
Charles Goodyears phát minh ra quá trình lưu hóa cao su vào năm 1839, khiến cao su có thể kết dính với các vật liệu khác như vải rất tốt. Đế cao su ra đời từ đó.
Giữa thập niên 1870, giày đế cao su đầu tiên ra đời, được gọi là giày plimsoll. Trên giày plimsoll thường có 1 vạch nằm ngang ở phần trên của đế giày giống như plimsoll line trên tàu biển, nếu như bạn dẫm giày xuống nước mà mực nước vượt quá vạch này thì chân bạn sẽ bị ướt.
Công ty cao su Mỹ đã nghiên cứu sản xuất ra giày có cấu tạo đế cao su nhưng thân giày được thay thế bằng vải canvas, sau nhiều lần đổi tên hãng quyết định lấy tên công ty là Keds vào năm 1892 và đến năm 1917, Keds trở thành “ông trùm giày thể thao” đầu tiên trên thị trường.
Những đôi giày này sau đó được mang tên sneakers – mang nghĩa đế cao su không gây ra tiếng động khi di chuyển trên bất cứ bề mặt nào, được sử dụng lần đầu tiên bởi Henry Nelson McKinney, nhân viên quảng cáo của N.W.Ayer &Son.
Năm 1908, Marquis M.Converse thành lập công ty giày Converse, cách mạng hóa bộ môn bóng rổ trong hơn nửa thế kỷ và trở thành một biểu tượng giày thể thao tại Mỹ. Sau đó, vào năm 1917, Converse tung ra sản phẩm sneakers bóng rổ đầu tiên trên thế giới, Converse All Star.
All Star nhường chỗ cho Chuck Taylor All Star vào năm 1923, biểu tượng của cầu thủ bóng rổ, trẻ em hay thanh thiếu niên, cả những kẻ nổi loạn … Đây là cú bắt tay giữa Converse và ngôi sao bóng rổ Chuck Taylor, đưa thị trường giày thể thao lên một tầm cao mới, biến Chuck Taylor All-Stars trở thành một trong những “ngôi sao” của mọi thời đại.
Còn được biết đến dưới cái tên Chucks, Cons, hay Connie’s, sản phẩm sneakers này đến nay đã được bán trên 750 triệu đôi trên hơn 144 quốc gia.
Năm 1924, nếu All Star bắt đầu thống trị tại Mỹ thì tại Đức, Adi Dassler sáng lập nên Adidas. Adidas tập trung chủ ý vào giày chạy bộ và giày đá bóng, sớm trở thành thương hiệu thể thao nổi tiếng nhất thế giới. Jesse Owens thậm chí đã mang Adidas khi thắng 4 huy chương vàng vào thế vận hội Olympics tại Berlin 1936. Năm 1931, Adidas cho ra đời mẫu giày sneakers tennis đầu tiên.
Converse giới thiệu thiết kế Jack Purcell với hình dáng “Nụ cười” ở mũi giày vào năm 1935. Mẫu thiết kế phổ biến rộng rãi ở Hollywood và toàn thế giới cho đến nay mặc dù tên tuổi của nhà vô địch cầu lông/tennis của năm 1930 Jack Purcell đã mờ dần theo lịch sử.
Năm 1948, Puma Schuhfabrik Rudolf Dassler (anh của Adi Dasler) thành lập Puma, nhanh chóng nổi tiếng với thiết kế PUMA Atom, đôi giày bóng đá đầu tiên của Puma được mang bởi các cầu thủ đến từ đội bóng Tây Đức.
Sneakers với giá thành rẻ và độ tiện dụng cao là mẫu giày được thanh thiếu niên đặc biệt ưa thích vào thập niên 1950, xuất hiện trong các trường học trên toàn thế giới. Sneakers thực sự nổi tiếng trong giới thời trang qua sự kiện tấm ảnh James Dean mặc một chiếc quần Levi’s đi kèm một đôi sneakers trắng.
Đầu thập niên 1970, những thế hệ học sinh đi học xưa đã lớn và có nhiều lựa chọn cho sneakers hơn. Rất nhiều nhãn hiệu sneakers mới hình thành và phát triển nhanh chóng, trở thành một đặc trưng trong văn hóa ăn mặc Mỹ. Có thể kể đến: Nike, Vans, Reebok, Puma, Onitsuka Tiger, Saucony, và K-Swiss… đều phát triển mạnh trong thời gian này.
Trước thời điểm này, giày thể thao chỉ có một loại và tất cả dường như đều giống nhau, có thể sử dụng đa mục đích trong bất cứ loại hình thể thao nào. Nhưng khi chạy bộ nổi lên vào giữa những năm 1970, nhiều nhãn hiệu đã nhanh chóng nắm bắt nhu cầu của người dùng, chuyên biệt hóa nhiều loại giày phù hợp với từng môn thể thao nhất định.
Giày chạy, giày tennis, giày bóng rổ… bắt đầu định hình vị trí của mình trong thế giới giày thể thao. Đây cũng là khi công nghệ sản xuất giày phối hợp hoàn hảo với khoa học thể chất cho ra đời những thiết kế tiện lợi nhất cho người mang.
Nhiều công ty mà điển hình là New Balance đã vượt qua những đôi giày đơn thuần bằng cao su và canvas để tiến tới chất liệu mới là nylon thoáng khí (breathable nylon).
Reebok giới thiệu Pump sneakers với công nghệ air-pump vào năm 1980. Pump được bơm căng không khí giúp cho việc đi lại và chạy được nhẹ nhàng hơn. Thiết kế có một bơm nhỏ ở lưỡi giày để làm phồng giày lên, ôm vừa khít bàn chân.
Sự kiện đã khẳng định sneakers là một biểu tượng văn hóa chính là khi Nike giới thiệu dòng sản phẩm giày bóng rổ hợp tác với ngôi sao của đội Chicago Bullsm AirJordan I (1984).
Màu nguyên gốc đỏ đen của Jordan phản lại các quy tắc của NBA vì “giày thi đấu của một vận động viên bóng rổ không những phải có màu tương tự như quần áo thi đấu, mà còn phải tương tự với giày của đồng đội họ” để tạo nên sự đồng nhất và quan hệ đồng đội giữa các cầu thủ, và mỗi khi Michael Jordan bước vào sân với đôi giày này, anh lại bị phạt 5.000 đô la Mỹ.
Nike hợp tác với Apple cho ra đời Nike+ vào năm 2006 với một nano chip được cài vào đôi giày, kết nối với iPod nano hiển thị các thông số sức khỏe của người dùng.
Cùng quá trình phát triển lâu đời, sneakers không ngừng tiến hóa và ngày càng khẳng định vị trí của mình, trở thành một item không thể thiếu của bất cứ một fashionista nào.
Chỉ cần chú ý đến màu sắc và tính chất của xu hướng cùng mục đích của mình là bạn đã có thể có một set đồ ưng ý, hợp thời trang và vô cùng thoải mái cùng sneakers.